Việt Nam vốn được biết đến là một đất nước có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú và đa dạng, với nhiều cây thuốc chứa những hoạt chất có công dụng trị bệnh hiệu quả cao. Trong đó, không thể không kể tới cây Hoàn ngọc.
1.Tên gọi
Cây hoàn ngọc còn gọi là cây xuân hoa, nhật nguyệt, tu lình, cây con khỉ, trạc mã, cây mặt quỷ,…thuộc họ Ô rô.
Hoàn ngọc là giống cây bụi , sống nhiều năm, cao 1-2m, phần gốc hóa gỗ màu nâu. Thân non màu xanh lục, phân nhiều cành mảnh. Lá hình mũi mác, mọc đối, dài 12-17 cm, rộng 3-3,5 cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mép nguyên.
Cây hoàn ngọc
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, hoa lưỡng tính, màu trắng pha tím, 5 đài tách rời nhau, tràng hợp có ống hẹp và dài, 5 cánh chia 2 môi, môi trên 3 thùy, môi dưới 2 thùy, thùy giữa có chấm tím, nhị 4, có 2 nhị kép, chỉ nhị ngắn đính ở hỗng tràng, bao phấn màu tím.
Quả nang, chứa 4 hạt.
Hoàn ngọc thuộc loại cây ưa ẩm, ưa sáng và hơi chịu bóng, nhất là khi còn nhỏ. Cây trồng sinh trưởng mạnh trong mùa xuân hè, mùa thu đông có hiện tượng nửa rụng lá. Cây xuân hoa trồng khoảng trên một năm tuổi mới có quả, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt, có khả năng đâm chồi mạnh sau khi bị chặt nên có thể nhân giống bằng hình thức giâm cành.
Cây hoàn ngọc được nhân giống dễ dàng bằng giâm cành. Chỉ cần dùng một đoạn cành hoặc ngọn cây dài khoảng 20-25 cm cắm xuống đất ẩm là có thể ra rễ. Về thời vụ trồng, có thể trồng quanh năm.
Hoàn ngọc mọc tự nhiên ở vùng núi, gần đây được trồng phổ biến hơn trong nhân dân.
Theo PGS.TSKH Trần Công Khánh (cán bộ giảng dạy Trường đại học dược Hà Nội, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển cây thuốc dân tộc cổ truyền (CREDEP)) ở Việt Nam hiện nay có 2 loại cây mà dân gian thường gọi với cái tên hoàn ngọc, là hoàn ngọc dương và hoàn ngọc âm. Hai loài cây này rất dễ nhầm lẫn với nhau.
Về cây hoàn ngọc dương (nhớt tím, hoàn ngọc đỏ). Loài cây này có ngọn cây, lá non và thân màu đỏ tía). Khoa học đã chứng minh và khẳng định rằng đây không phải là cây hoàn ngọc mà là cây bán tự mốc.
Đây không phải cây hoàn ngọc dùng để chữa bệnh
Tên khoa học của nó là Hemigraphis glaucescens C.B Clarke, họ Ô rô (Acanthaceae). Bán tự mốc là loài cây chủ yếu được dùng trong dân gian. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về tác dụng trị bệnh của loài cây này.
Loại thứ hai là hoàn ngọc âm (nhật nguyệt, nội đồng, lay gàm, dièng tòn pièng (Dao), nhần nhéng (Mường), tu lình) mới chính là hoàn ngọc có tác dụng chữa bệnh.
Đây mới là cây hoàn ngọc có tác dụng chữa bệnh
Năm 1987, PGS.TSKH Trần Công Khánh đã xác định được tên khoa học của nó là Pseuderanthemum palatiferum (Wall.) Radlk., thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).Hoàn ngọc âm còn có tên khác là cây xuân hoa.
Với cây hoàn ngọc, người ta lấy lá và rễ làm dược liệu, có thể dùng tươi hoặc phơi khô.
Để nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của cây hoàn ngọc, các nhà khoa học đã xác định trong cây hoàn ngọc có chứa các thành phần sau: sterol, flavonoid, đường khử, carotenonl, acid hữu cơ, saponin. Bảy chất đã được phân lập, trong đó có phytol, beta- sitosterol, hỗn hợp đồng phân epimer của stigmasterol và poriferasterol, beta-D- glucopyranosyl-3-O- sitosterol. Lá chứa diệp lục toàn phần 2,65mg/g ( lá tươi), N toàn phần 4.9% (chất khô), protein toàn phần 30,08% (chất khô),…
đã nghiên cứu cao đặc chiết xuất bằng methanol từ cây xuân hoa và đưa ra một số kết quả
– Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của cao trên E.Coli là 200 mcg/ml, chưa thấy có tác dụng trên Pseudomonas aeruginosa
– MIC của cây xuân hoa trên Bacillus Subtilis và Staphy lococus aureus là 200 mcg/ml.
– Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy lá xuân hoa và cao toàn phần chiết xuất từ lá có tác dụng kháng vi khuẩn gram âm (Escherichia coli, Psseudomonas aeruginosa), vi khuẩn gram dương (Bacillus subtilis, Staphyllococcus aureus, Streptococcus pyogenes), nấm men (Candida albicans, Saccharomyces cerevisiae) và nấm mốc (Aspergillus niger, Fusarium oxysporum, Pyricularia oryzae, Rhezoctonia solani).
Lá cây xuân hoa chiết rồi cô đặc thành cao, nồng độ 6mg/ml có tác dụng ức chế 69,9 %, nguồn MAO lấy từ mitochondri của chuột cống trắng và có chất dùng là kynuramin.
Tác dụng bảo vệ gan đã được chứng minh trên các thí nghiệm với chuột nhắt trắng.
Xuân Hoa có vị đắng ngọt. Lá già như có bột, lá non nhớt. Lá không có mùi vị. Vỏ và rễ của cây có vị đắng ngọt như lá già. Lá có tác dụng kích thích thần kinh khi ăn sống, có cảm giác say nhẹ trong một khoảng thời gian ngắn khi ăn nhiều.
Trần Nhân Phan
Theo Nội khoa Việt Nam
Nguồn tin: nongsansay.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn